Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

Cách chăm sóc trẻ nhiễm khuẩn đường hô hấp

Chúng ta vẫn quan niệm rằng, mùa đông tiết trời lạnh, trẻ dễ bị viêm đường hô hấp và viêm phổi. Còn mùa hè bệnh này sẽ ít gặp hơn.

Thực ra mùa hè thời tiết nóng ẩm, là điều kiện rất tốt cho vi khuẩn sinh sôi và truyền bệnh. Thêm nữa, mùa hè khi trẻ hoạt động, mồ hôi ra nhiều, nếu không kịp thời thay quần áo, mồ hôi sẽ ngấm ngược, dễ gây viêm đường hô hấp và viêm phổi.
 
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là bệnh thường gặp nhất ở trẻ em, nhất là ở trẻ em dưới 5 tuổi. Người ta ước tính mỗi năm một em bé dưới 5 tuổi có thể mắc phải từ 3 - 8 lần nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Phần lớn trường hợp nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính sẽ tự khỏi trong vòng 1 tuần khi được chăm sóc đúng cách. Nhưng cũng có đến 1/3 trường hợp, bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính sẽ diễn tiến thành viêm phổi.

Bệnh viêm phổi ở trẻ nhỏ, nếu không phát hiện và điều trị kịp thời, sẽ rất nguy hiểm cho tính mạng, thậm chí gây tử vong, vì thế, việc phát hiện sớm trẻ bị viêm phổi là rất quan trọng. Không khó để phát hiện trẻ bị viêm đường hô hấp cấp, viêm phổi, vì các dấu hiệu rất điển hình.
Dấu hiệu đầu tiên và sớm nhất đó là trẻ thở nhanh hơn bình thường. Khi trẻ bị viêm phổi, phổi của trẻ sẽ mất tính mềm mại và không thể giãn nở dễ dàng khi trẻ hít thở mà hậu quả là trẻ có thể bị thiếu ôxy. Vì vậy, trẻ buộc phải thở nhanh hơn dể bù đắp lại sự thiếu hụt này.
Thế nào là thở nhanh?
 
Chúng ta có thể kiểm tra bằng phương pháp rất đơn giản: đếm nhịp thở của trẻ trong trọn 1 phút để xem trẻ có thở nhanh hay không. Gọi là thở nhanh khi: nhịp thở từ 60 lần/phút trở lên ở trẻ dưới 2 tháng. Từ 50 lần/phút trở lên ở trẻ từ 2 - 11 tháng. Từ 40 lần/phút trở lên ở trẻ từ 12 tháng đến 5 tuổi.
Vì nhịp thở có thể tăng khi trẻ gắng sức (bú, quấy khóc...) nên chúng ta cần phải đếm nhịp thở khi trẻ nằm im, tốt nhất khi ngủ.
Ngoài thở nhanh, những trẻ bị viêm phổi nặng, trẻ nhỏ bị viêm phổi khi thở còn bị co lõm lồng ngực. Trường hợp này chứng tỏ bệnh viêm phổi đã nặng, cần nhập viện ngay để điều trị.
Đặc biệt, nếu trẻ có các dấu hiệu sau đây thì bắt buộc phải đưa trẻ đi cấp cứu càng sớm càng tốt, nếu không tính mạng trẻ sẽ bị đe dọa nghiêm trọng:
Trẻ dưới 2 tháng: bỏ bú hoặc bú kém, co giật hoặc trẻ ngủ li bì, khó đánh thức trẻ dậy, sốt hoặc lạnh, thở khò khè.
Trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi: trẻ không thể uống được gì cả, co giật hay ngủ li bì, khó đánh thức, thở có tiếng rít, suy dinh dưỡng nặng.
Bệnh viêm phổi, nếu nhẹ có thể điều trị cho trẻ tại nhà. Nhưng khi đó, cần hết sức chú ý tuân thủ theo hướng dẫn của bác sĩ điều trị.
Đặc biệt, phụ huynh cần tuân thủ tốt những yêu cầu sau:
 
Cho trẻ uống kháng sinh thích hợp: Đây là điều quan trọng nhất để trẻ có thể khỏi bệnh. Trẻ cần phải được uống kháng sinh thích hợp, đúng cách, đủ liều và đủ thời gian. Khi được thầy thuốc chỉ định, các bậc phụ huynh cần nhận biết đúng dạng thuốc cho trẻ uống, liều lượng mỗi lần uống, số lần uống trong ngày và số ngày cần cho trẻ uống thuốc. 
 
Đối với các loại thuốc viên, cần tán nhỏ viên thuốc trước khi cho trẻ uống (có thể cho vào một ít nước và chờ vài phút, nước sẽ làm viên thuốc bở ra và dễ nghiền nhỏ hơn). Có thể pha thêm một ít đường, hoặc pha với một ít sữa, nước cháo để bé có thể uống dễ dàng hơn. Nếu trẻ ói trong vòng 30 phút sau khi uống thuốc, cần cho bé uống lại một liều khác.

Điều trị các triệu chứng kèm theo (sốt, khò khè): Tùy trường hợp mà thầy thuốc sẽ cho trẻ các loại thuốc cần thiết khác như thuốc hạ sốt (paracetamol), thuốc điều trị khò khè (salbutamol, trebutaline). Cần cho trẻ uống đúng theo hướng dẫn dù rằng các loại thuốc này cũng khá an toàn cho trẻ em.
Biết cách chăm sóc trẻ tại nhà
- Cần phải tăng cường cho trẻ ăn, bú, tránh các tập quán kiêng ăn. Cần cho trẻ ăn đủ chất, bú đều đặn khi đang bệnh. Khi trẻ vừa khỏi bệnh cũng cần bồi dưỡng thêm cho trẻ mau lại sức. Đối với trẻ nhỏ, khi mũi bị nghẹt, tắc, trẻ sẽ khó bú, khó ăn hơn. Vì vậy cần làm thông thoáng mũi cho trẻ để trẻ có thể bú, ăn dễ dàng hơn.
- Cần cho trẻ uống nhiều nước hoặc tăng cường cho trẻ bú. Đây là điều rất quan trọng vì trẻ bị viêm phổi cần được cung cấp nhiều nước để làm loãng đờm, dịu họng, giảm ho.
- Riêng đối với vấn đề ho, chúng ta cần lưu ý: khi trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, ho chính là một phản xạ có lợi để tống đờm dãi ra ngoài, giúp đường thở được thông thoáng để trẻ có thể hít thở dễ dàng. Vì vậy không nên lạm dụng các loại thuốc ho để kìm hãm phản xạ có lợi này của trẻ nhất là khi hiện nay có nhiều loại thuốc ho có thể gây ngộ độc, tác dụng phụ quan trọng ở trẻ em nếu dùng không đúng cách. 
 
Trên thực tế nếu dùng đúng loại kháng sinh thích hợp để trị viêm phổi cũng sẽ giúp trẻ giảm ho nhanh chóng. Chỉ khi nào trẻ ho nhiều dẫn đến những hậu quả xấu cho trẻ như nôn ói, mất ngủ, đau tức ngực, đau rát họng... chúng ta có thể cho trẻ dùng các thuốc ho an toàn (nên hỏi ý kiến bác sĩ). 
Biết được khi nào cần đưa trẻ đến khám lại: bao gồm tái khám theo hẹn và khám lại ngay lập tức khi trẻ trở nặng.
- Tái khám theo hẹn: trẻ cần được bác sĩ khám lại sau 2 ngày để đánh giá xem thuốc kháng sinh trẻ dùng có hiệu quả tốt hay không. Ngay trong trường hợp tốt nhất (trẻ thở trở lại bình thường, hết sốt, ăn, bú khá hơn) trẻ cũng cần phải tiếp tục cho uống kháng sinh đủ thời gian là 5 ngày. Nếu sau 2 ngày tái khám mà trẻ còn thở nhanh, thầy thuốc sẽ cho trẻ dùng một loại kháng sinh cần thiết khác hoặc cho cháu nhập viện điều trị.
- Khám lại ngay: cũng cần lưu ý theo dõi và đưa ngay trẻ đến cơ sở y tế hoặc bệnh viện nếu thấy trẻ có một trong các dấu hiệu sau: thở khó khăn (thở nhanh hơn, mạnh hơn, thở co lõm lồng ngực), trẻ không bú được, không thể uống được nước, trẻ trở nên mệt hơn. Đây là những dấu hiệu cho biết bệnh của trẻ đã trở nặng, cần nhập viện ngay. 
 (Theo Sức khỏe & Đời sống)

Ngăn ngừa cảm lạnh ở trẻ

Chảy nước mũi, nghẹt mũi, ngứa mũi, hắt hơi, ho, mệt và đau đầu có thể là triệu chứng của cảm lạnh và dị ứng theo mùa.

Dưới đây là hướng dẫn về cách ngăn ngừa căn bệnh này ở trẻ của bác sĩ Michelle Lierl, chuyên gia dị ứng khoa Nhi tại Trung tâm Y tế của Bệnh viện Nhi Cincinati (Mỹ), theo Healthday:
- Đóng cửa sổ phòng và cửa sổ xe ô tô để ngăn hàm lượng phấn hoa và mầm bệnh xâm nhập.
- Thay bộ lọc máy điều hòa mỗi tháng một lần
- Thay quần áo sau khi ra ngoài về.
- Rửa mặt, rửa tay khi về đến nhà.
- Hạn chế các hoạt động ngoài trời vào buổi sáng.
AloBacsi.vn (Theo Thanh niên)

Cách tập thể thao tốt cho người hen suyễn

Đối với những người bệnh, biện pháp tốt nhất là chơi thể thao trong phòng lớn, có đầy đủ thuốc men để đề phòng trườnghợp có thể xảy ra cơn hen suyễn đột ngột.

Sau một loạt các cuộc nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa ra kết luận: những người bệnh hen suyễn nên luyện tập thể thao. Và những người mắc căn bệnh này hãy cố gắng vận động, nhất là những bộ môn thể thao phối hợp như bóng chuyền, cầu lông... bởi vì bản chất của loại hình thể thao này không đòi hỏi người chơi phải hô hấp quá nhanh.
 
Chúng cũng tạo điều kiện cho người bệnh tiếp xúc với các bạn chơi khác và dần dần tự rút ra khỏi tình trạng cô lập, đơn độc tự ti mà người mắc  bệnh thường có.

Ngoài ra, bệnh nhân có thể áp dụng các loại hình vận động khác như nhảy, thể dục tay không hoặc thể dục dụng cụ. Thể thao không chỉ tốt về phương diện bảo vệ thân thể, tăng cường sức khoẻ mà còn có khả năng giải toả căng thẳng giúp người ta có tinh thần sảng khoái, không bị ức chế. Tuy vậy, đối với những người bệnh, biện pháp tốt nhất là chơi thể thao trong phòng lớn, có đầy đủ thuốc men để đề phòng trườnghợp có thể xảy ra cơn hen suyễn đột ngột.
Tuy nhiên, khi người hen suyễn đã sắn sàng cho việc luyện tập thể dục thể thao, hãy chú ý:
-    Đừng luyện tập quá sức.
-    Trong và sau quá trình luyện tập hãy để cho tinh thần thư giãn và thoải mái.
-    Sắp xếp thời gian nghỉ giải lao hợp lý trong quá trình chơi thể thao.
-    ở trạng thái bình thường, phế quản bị co lại. Vì vậy người mắc bệnh này nhớ khởi động kỹ một cách nhẹ nhàng trước khi luyệnt ập để đảm bảo phế quản của bạn co giã một cách tốt nhất.
-    Thở bằng mũi càng lâu càng tốt.
-    Tránh các môn thể thao đòi hỏi phải tập trung sức lực và phải thực hiện với tần số cao. Tốt hơn là chơi các loại hình thể thao đòi hỏi sự bền bỉ như đạp xe đạp, đi hoặc chạy bộ.
-    Cảm giác thường thấy khi mắc bệnh này là khô nơi cổ họng. Vì vậy, môn bơi trong điều kiện tiếp xúc với không khí ẩm quả là một môn thể thao lý tưởng đối với bạn.
 (Theo Pháp luật Việt Nam)

Để cảm cúm không tiến triển nặng thêm

Cảm cúm là bệnh của đường hô hấp trên, thường có các triệu chứng rõ nhất là chảy mũi, đau đầu, nhức mình mẩy...

Cảm cúm là bệnh của đường hô hấp trên, thường có các triệu chứng rõ nhất là chảy mũi, sổ mũi, nghẹt mũi, đau đầu, nhức mình mẩy... Bệnh tuy nhẹ nhưng có thể gây nhiều phiền toái trong quá trình diễn tiến. Bên cạnh đó, chảy mũi cũng là cơ hội để các virut, vi khuẩn phát tán từ người bệnh sang những người xung quanh. Nếu không chữa trị kịp thời, cảm cúm có thể gây những biến chứng nghiêm trọng như viêm xoang cấp, viêm tai giữa cấp, viêm phế quản - phổi.
 
Cảm cúm vốn là bệnh dễ trị nếu chúng ta đặt trọng tâm là điều trị triệu chứng. Có thể dùng thuốc nhỏ hoặc xịt mũi có thành phần phenylephedrine hydrochloride (gọi tắt là PE) có tác dụng co mạch, chống sung huyết mũi, giảm chảy mũi, sổ mũi, nghẹt mũi.
 
Để giảm đau đầu, đau nhức mình mẩy thì dùng thuốc chứa hoạt chất paracetamol có tác dụng giảm đau nhanh nhằm giúp người bệnh tỉnh táo hơn khi làm việc, học tập. Khi gặp cảm cúm với triệu chứng nặng hơn, cháu nên dùng thêm noscapine để trị ho, terpine hydrate giúp làm loãng đờm và vitamin C để tăng cường sức đề kháng giúp cơ thể mau bình phục.
Trong trường hợp các triệu chứng vẫn diễn tiến kéo dài, chảy mũi không dứt, lại thấy sốt cao, mệt mỏi nhiều... thì cần đi khám bác sĩ hoặc đến bệnh viện để được chẩn đoán và điều trị thích hợp.
AloBacsi.vn (Theo Sức khỏe & Đời sống)

80% bệnh nhân hen suyễn chưa được kiểm soát

Bệnh nhân chủ quan, thiếu thuốc cấp cứu tại các trạm y tế phường xã... khiến chỉ mới 20% người bị bệnh hen tại Việt Nam được theo dõi điều trị tốt.

Tầm soát và kiểm soát hen bằng cách điều trị theo đúng phác đồ giúp giảm nguy cơ lên cơn cấp hoặc tử vong cho bệnh nhân. Ảnh: Thiên Chương
Theo Chủ tịch Hội Hô hấp TPHCM, TS.BS Lê Thị Tuyết Lan, tình trạng này đáng báo động, bởi hen suyễn là bệnh mạn tính, nếu không phát hiện sớm và tuân thủ phác đồ điều trị, người bệnh rất dễ tử vong.
Phát biểu trong hội thảo “Cải thiện và nâng cao chất lượng sống cho bệnh nhân hen với mạng lưới quản lý hen toàn quốc” tổ chức nhân ngày Hen toàn cầu 5/5, tiến sĩ Lan cho biết, hiện Việt Nam có khoảng 4 triệu người mắc bệnh hen suyễn và mỗi năm chừng 3.00 người tử vong.
“Nguyên nhân chính kiểm soát hen vẫn chưa hiệu quả là do ý thức của người dân về bệnh còn kém. Rất nhiều người có triệu chứng bệnh nhưng không khám. Số khác khám rồi những lại bỏ thuốc khi cơn hen qua đi”, BS Lan nói.
Một trong những nguyên nhân khác khiến bệnh hen chưa được kiểm soát, theo các chuyên gia về bệnh hô hấp, là do mạng lưới quản lý hen và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính chưa phát triển đồng bộ.
“Hiện cả nước chỉ có 26 tỉnh thành có đơn vị chuyên chăm sóc sức khỏe cho người bệnh này. TPHCM, nơi phát triển mạng lưới lớn nhất nước thì cũng chỉ có ở 11 quận huyện”, bà Lan nói.
Tại các tỉnh phía Bắc, theo tiến sĩ Chu Thị Hạnh, BV Bạch Mai cũng cho hay, không chỉ người bệnh kém hiểu biết về bệnh mà ngay cả một số ít bác sĩ chưa nắm được các chỉ số đánh giá bệnh, không nêu được đầy đủ các dạng thuốc điều trị.
Một trở ngại khác khiến việc quản lý và tầm soát hen suyễn còn hạn chế là vấn đề bảo hiểm y tế. Thuốc điều trị hen đã có trong danh mục bảo hiểm chi trả. Tuy nhiên bảo hiểm chỉ thanh toán cho bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến quận huyện.
“Nhiều bệnh nhân lên cơn hen chạy đến trạm y tế phường xã thì không có sẵn thuốc đặc trị để sơ cứu”, tiến sĩ Lan nói.
 
AloBacsi.vn (Theo VnExpress)

Những quan niệm không đúng về bệnh cúm

Việc phòng ngừa và ngăn chặn cúm, cảm lạnh cũng như hạn chế các triệu chứng là việc cấp thiết, song đôi khi chúng ta lại rất dễ mắc sai lầm.

Kiêng sữa khi bị cảm cúm
Không ít người cho rằng nên kiêng uống sữa và ăn các sản phẩm từ sữa khi bị cảm cúm, bởi sữa giàu protein sẽ kích thích sản sinh ra nhiều dịch nhờn. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng các sản phẩm từ sữa không kích thích sản sinh chất nhờn trong cơ thể, thậm chí sữa còn giúp làm dịu và giảm bớt các cơn ho do cảm lạnh. Ngoài ra, cần bổ sung thêm sữa để cung cấp năng lượng, tăng cường hệ miễn dịch cho cơ thể.
Tiêm phòng cúm không giúp phòng được mọi loại virut cúm
Cúm do ăn các thực phẩm từ lợn?
Khi chủng cúm H1N1 được phát hiện lần đầu tiên vào năm 2009, nó được gọi là cúm lợn bởi virut cúm được phát hiện trên loài lợn. Rất nhiều người nghĩ rằng họ đã bị mắc cúm từ lợn, bởi vậy, họ ngừng ăn các sản phẩm từ thịt lợn để tránh bị mắc cúm. Đã có thời tại một số quốc gia trên thế giới, người nông dân điêu đứng vì thịt lợn bị tẩy chay do cúm lợn.
 
Tuy nhiên, H1N1 chỉ đơn giản là một trong số rất nhiều loại virut cúm và cơ chế lây cúm lợn cũng giống như các loại virut cúm khác, đó là thông qua đường hô hấp. Việc cách ly lợn, không ăn thịt lợn chỉ giúp ngừa được một loại virut H1N1 mà thôi. Thậm chí nếu thịt lợn được chế biến cẩn thận và nấu chín kỹ thì bạn cũng khó có thể mắc cúm.
Tiêm phòng cúm giúp phòng mọi loại virut cúm
Tiêm phòng cúm là một trong những cách hạn chế cúm, song không phải là cách ngăn chặn cúm tuyệt đối. Việc tiêm phòng cúm chỉ đơn giản là tiêm vào cơ thể một loại virut cúm đã bị làm yếu hoặc đã bị tiêu diệt không có khả năng gây bệnh, nhưng hệ miễn dịch của chúng ta có thể nhận biết chúng và hoạt động hiệu quả hơn khi gặp phải virut cúm đó. Tuy nhiên, nếu tiêm phòng cúm, bạn vẫn có thể bị mắc cúm do bị nhiễm nhiều loại virut cúm khác.
 
Hiện Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ đã phát minh ra một loại vaccin phòng cúm mới với tên gọi flumist. Loại vaccin này có mang chủng virut cúm còn sống và điều này mang lại hi vọng phòng cúm hiệu quả hơn so với các loại vaccin khác. Tuy nhiên, flumist vẫn cần thời gian để được kiểm chứng.

Lá tía tô dùng xông hơi chữa bệnh cảm cúm
Cảm cúm cần điều trị bằng kháng sinh
Thông thường, kháng sinh được dùng để điều trị phần lớn các bệnh, chủ yếu là các chứng nhiễm khuẩn. Nhiều người nhầm lẫn khi sử dụng kháng sinh để điều trị cúm và cảm lạnh, trong khi đó, cảm cúm và cảm lạnh phần lớn là do virut gây ra. Bởi vậy, người bị mắc cúm hoặc cảm lạnh không cần phải dùng đến kháng sinh. Các bác sĩ chỉ kê đơn thuốc kháng sinh cho người bị nhiễm cúm hoặc cảm lạnh khi họ bị mắc kèm các triệu chứng như viêm họng, viêm phổi, viêm xoang hoặc nhiễm trùng tai…
Cúm có nghĩa là hệ miễn dịch đang bị suy yếu
Không ít người nghĩ rằng mắc cúm là do hệ miễn dịch của chúng ta bị suy yếu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rất nhiều trường hợp khỏe mạnh cũng bị mắc cúm. Đơn giản chỉ vì họ đã bị nhiễm virut cúm và điều này không liên quan gì đến việc hệ miễn dịch khỏe hay yếu. Việc nhiễm virut cúm chủ yếu qua đường hô hấp, qua mắt, mũi, miệng hay những khu vực bị viêm nhiễm… Khi hệ miễn dịch yếu, quá trình phát bệnh diễn ra nhanh hơn.
Cúm có nghĩa là hệ miễn dịch đang bị suy yếu do bị virut cúm tấn công
Virut cúm chỉ lây qua đường không khí
Mặc dù virut cúm chủ yếu lây lan qua đường không khí, do hít phải không khí có virut cúm hoặc tiếp xúc với người bị mắc cúm... Tuy nhiên, đôi khi việc nhiễm virut cúm cũng rất đơn giản, bạn chạm phải đồ vật mà trên bề mặt có nhiễm khuẩn hoặc những nơi công cộng mà nhiều người thường chạm tới chẳng hạn như mặt bàn, điện thoại công cộng, bàn phím máy tính… Virut gây bệnh có thể bám từ tay bạn và nhiễm vào mắt, mũi, miệng…
Trong mùa cúm, chỉ mắc cúm một lần
Không ít người nghĩ rằng: trong mùa cúm, nếu đã bị nhiễm cúm một lần thì cơ thể sẽ miễn dịch với cúm và sẽ không bị mắc lại nữa. Không may là điều này không là đúng bởi cúm có rất nhiều chủng loại khác nhau. Nếu trong mùa cúm, bạn đã bị nhiễm loại cúm này thì bạn vẫn có thể bị nhiễm lại một loại cúm khác hoặc chính loại virut cúm lần trước nếu hệ miễn dịch của bạn không tốt.
 AloBacsi.vn (Theo Sức khỏe & Đời sống)

Không khí bẩn, bệnh phổi tăng 10-20 lần

Sự gia tăng số bệnh nhân COPD, lao, hen… những năm gần đây là tiếng chuông báo động về điều kiện sống kém, trong đó có yếu tố không khí bẩn.

Bảy năm trước, 70% bệnh nhân của Bệnh viện Phổi T.Ư là các trường hợp lao, nhưng hiện nay, phần lớn là người mắc các bệnh khác như viêm phổi, phế quản, nấm phổi, hen, dị ứng do khói bụi…
 
Ô nhiễm không khí làm tăng số bệnh nhân mắc bệnh phổi (Ảnh chụp tại BV Phổi T.Ư).  Ảnh: T.H
Số người mắc bệnh phổi mạn tính số mắc tăng tới 10 – 20 lần so với 10 năm trước. TS Đinh Ngọc Sỹ, Giám đốc BV Phổi T.Ư, nhận định.
Bệnh nhân mắc phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một trong những người gánh hậu quả rõ nhất của không khí thiếu trong lành. Ông Nguyễn Văn Ninh (59 tuổi, ở phố Lý Văn Phúc, Hà Nội) năm nay 59 tuổi nhưng ai cũng bảo ông phải 70 tuổi.
Nhiều năm ông bị COPD, thường xuyên khó thở, ít đi lại, các sinh hoạt cá nhân đều cần có sự giúp đỡ của người nhà. Ông Ninh hút thuốc lá gần 20 năm, nhà ông chật chội, sử dụng than tổ ong.
Các bác sĩ BV Phổi T.Ư cho hay, đó là những lý do dẫn đến việc mắc bệnh của bệnh nhân này. Hay như bà Nguyễn Thị Nga (60 tuổi, ở phố Đội Cấn, Hà Nội) vốn là một giáo viên cấp II.
Gần 30 năm đứng trên bục giảng, ngày nào cũng hít bụi phấn, khi đó còn là phấn bột. Mới đây, bà Nga nhập viện vì những cơn khó thở và được chẩn đoán mắc COPD.
Theo ThS Đào Bích Vân, Trưởng khoa Thăm dò phục hồi chức năng BV Phổi T.Ư, có tới 95% bệnh nhân COPD là những người sống và làm việc ở môi trường ô nhiễm.
Bệnh nhân nam là người hút thuốc lá, làm công nhân nhà máy xi măng, nhựa đường, nhà máy nghiền đá… Bệnh nhân nữ, thường là làm công nhân những nhà máy nói trên, là người bán hoa quả ngoài đường, thợ may, người nội trợ hay đun than tổ ong…
Vì thế, trước khi chữa bệnh, điều đầu tiên mà bác sĩ chỉ định cho bệnh nhân là tách khỏi các yếu tố nguy cơ như: Dừng hút thuốc lá, không dùng than tổ ong và cố gắng sinh hoạt trong không khí trong lành hơn. Một người hút thuốc lá trung bình 10 – 15 điếu/ngày thì chỉ sau 2 năm, họ đã có nguy cơ bị COPD, nặng hơn là ung thư phổi.
Gánh nặng cho xã hội
Năm 2005, chỉ có khoảng 30% bệnh nhân vào BV Phổi T.Ư là bệnh nhân COPD, nhưng nay con số lên tới 60 – 70%. Hầu hết người bệnh đều có tình trạng suy giảm chức năng hô hấp, sức khỏe kém.
Khi chức năng hô hấp, kém kéo dài, người bệnh phải gắng sức thường xuyên nhưng vẫn không hít đủ lượng khí trao đổi cần thiết, từ đó các tế bào và cơ quan vẫn thiếu oxy dẫn đến rối loạn chức năng của tất cả tổ chức, đầu tiên là hệ tim mạch, hệ thần kinh trung ương, bộ não, hệ tiêu hóa, hệ tiết niệu... Vì thế, người bệnh rất dễ là gánh nặng của gia đình và xã hội.
Không chỉ là bệnh thường gặp, tỷ lệ mắc COPD trong dân số đang tăng nhanh. Căn bệnh gây tử vong rất cao này chỉ đứng sau bệnh mạch vành, ung thư và tai biến mạch máu não.
COPD đang đứng hàng thứ 6 trong 10 bệnh thường gặp nhất. PGS. TS Ngô Quý Châu, Phó giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, cho biết, khoảng 30% bệnh nhân khoa Hô hấp của bệnh viện này là người mắc COPD.
ThS Nguyễn Kim Cương, Trường ĐH Y Hà Nội, nói rằng, sự gia tăng số bệnh nhân COPD, lao, hen… những năm gần đây là tiếng chuông báo động về điều kiện sống kém, trong đó có yếu tố không khí bẩn.
Nhiều người dân hình thành thói quen đeo khẩu trang khi ra đường với hy vọng giảm thiểu tiếp xúc với khói, bụi ô nhiễm.
Đối với người đã bị bệnh đường hô hấp, khẩu trang có tác dụng hạn chế lây nguồn bệnh của họ ra cộng đồng, đồng thời khiến bệnh không nặng thêm. Còn tác dụng ngăn ngừa mắc bệnh hô hấp thì chưa thể khẳng định.
 
AloBacsi.vn (Theo Tiền Phong)

Bệnh cảm lạnh ở trẻ: khi nào nguy hiểm?

Mặc dù chỉ gây các triệu chứng cảm lạnh nhẹ, nhưng khi nhiễm vi-rút hợp bào hô hấp trẻ nhỏ và những người hệ miễn dịch kém có thể chuyển thành bệnh rất nặng.

Theo bác sĩ Rahul Bhatia thuộc Đơn vị điều trị tích cực nhi khoa của Hệ thống Y tế Đại học Loyola (Mỹ): “Đây là một vi-rút rất dễ lây. Mặc dù thường đạt đỉnh điểm vào mùa đông, vi-rút có thể tiếp tục tác động tới cộng đồng vào đầu mùa xuân”.
 
Theo Trung tâm Kiểm soát bệnh dịch Mỹ, RSV là nguyên nhân hàng đầu gây viêm phế quản ở trẻ dưới 1 tuổi. Phần lớn trẻ em bị phơi nhiễm RSV khi được 2 tuổi. Đáng tiếc là vẫn chưa có vắc-xin bảo vệ trẻ khỏi virút này. RSV dễ dàng lây lan qua tiếp xúc với người và bề mặt bị nhiễm, vì vậy rửa sạch tay cho trẻ và người chăm sóc trẻ là cách tốt nhất để ngăn ngừa vi-rút lây lan. 
 
Các triệu chứng điển hình xuất hiện vào khoảng 5-7 ngày bị bệnh và có thể tiếp tục bị bệnh trong 10-15 ngày. Người có RSV thường dễ lây trong vòng 3-8 ngày, nhưng người có hệ miễn dịch yếu có thể lây trong 4 tuần.
 
Nếu con bạn ở tuổi đi học có các triệu chứng cảm lạnh, tốt nhất là giữ trẻ cách ly với những anh chị em khác để tránh lây nhiễm.
 
Các triệu chứng RSV thay đổi theo tuổi và có thể giống với triệu chứng của cảm lạnh:

- Trẻ ngày càng khó thở hơn

- Phập phồng cánh mũi

- Chán ăn

- Thở không đều

- Ít đi tiểu
AloBacsi.vn  (Theo Dân trí)

Liên Hiệp Quốc kêu gọi VN tăng cường phòng chống lao

Việt Nam hiện vẫn đang nằm trong nhóm 22 quốc gia chịu 80% gánh nặng bệnh lao toàn cầu.

Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon vừa gửi thư cho Chủ tịch nước Trương Tấn Sang kêu gọi VN “huy động và duy trì bền vững các nguồn lực cần thiết để xóa bỏ thảm kịch người dân đang chết dần vì bệnh lao”.
Ông Ban Ki Moon đánh giá cao những tiến bộ quan trọng mà VN đã đạt được trong việc tiếp cận bệnh nhân lao thể truyền nhiễm, đảm bảo tỉ lệ điều trị khỏi cao. Tuy nhiên, VN sẽ phải nỗ lực nhiều hơn khi hiện vẫn đang nằm trong nhóm 22 quốc gia chịu 80% gánh nặng bệnh lao toàn cầu.
Thống kê của Bộ Y tế cho thấy mỗi năm cả nước có 180.000 người mắc và gần 30.000 người chết do bệnh lao, nhưng chỉ có hơn 50% bệnh nhân lao các thể được phát hiện, quản lý điều trị.
AloBacsi.vn (Theo Tuổi Trẻ)

Viêm thanh quản cấp do virut ở trẻ: Nghe tiếng ho, nhận biết bệnh

Bạn có con nhỏ, sau khi bị cảm lạnh trong vài ngày, bất ngờ cháu bị ho ông ổng, nhất là vào lúc nửa đêm.

Tiếng ho to dữ dội của trẻ thường được mô tả như tiếng chó sủa làm bạn lo sợ. Bệnh gì mà nghe ho ghê vậy ? Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn hiểu biết về chứng bệnh này.
Trẻ nhỏ dưới 5 tuổi dễ mắc bệnh
Bệnh có thể xảy ra bất cứ thời điểm nào trong năm nhưng thường gặp vào mùa đông - xuân vì lúc này virut gây bệnh phát triển mạnh hơn. Bệnh do nhiều loại virut cúm gây ra, trong đó hay gặp nhất là virut á cúm. Các loại virut này lây truyền qua dịch tiết hô hấp hoặc giọt nhỏ chất tiết trong không khí do ho, hắt hơi hoặc thở bắn ra. Virut xâm nhập cơ thể gây cảm lạnh ở trẻ nhỏ, sau vài ngày trẻ bất ngờ bị ho ông ổng. Tiếng ho như chó sủa này nếu gặp lần đầu sẽ làm bạn lo lắng và bối rối. Nhưng bạn hãy bình tĩnh, vì đó là biểu hiện đặc trưng của bệnh viêm tắc thanh quản ở trẻ nhỏ.
Viêm tắc thanh quản (viêm thanh quản cấp do virut) là hiện tượng viêm thanh quản và đường hô hấp ngay phía dưới thanh quản. Bệnh hay gặp ở trẻ dưới 5 tuổi do đường thở nhỏ, dễ bị hẹp hơn khi viêm sưng. Tuy nhiên người lớn cũng có thể bị cảm lạnh và viêm thanh quản nhưng không bị tắc. Viêm tắc thanh quản thường trở nặng vào ban đêm và có thể kéo dài 5-7 đêm.
 
Viêm tắc thanh quản tái diễn gọi là viêm tắc thanh quản co thắt. Biểu hiện bệnh nặng nhất ở trẻ dưới 3 tuổi, trong đó trẻ hay bị viêm tắc thanh quản nhất là khoảng 18 tháng; có khoảng 5% trẻ bị viêm tắc thanh quản trong năm 2 tuổi. Trẻ trai dễ bị nhiễm khuẩn và mắc bệnh nặng hơn so với trẻ gái.
 
 Ảnh minh họa (nguồn Internet)
Ho ông ổng và dấu hiệu khác
Viêm tắc thanh quản thường biểu hiện giống bị cảm lạnh, như chảy nước mũi, ngạt mũi. Nếu trẻ nhỏ bị cảm lạnh rồi khản tiếng là chuẩn bị tiến triển sang viêm tắc thanh quản vào ban đêm. Dấu hiệu đặc biệt của viêm tắc thanh quản là tiếng ho to, khàn, ông ổng. Dấu hiệu đặc trưng này được mô tả là ho như tiếng chó sủa. Tiếng ho khan, không có chất tiết. 
 
Cơn ho thường kéo dài khoảng 1 giờ nhưng cũng có khi biến chuyển từ nhẹ sang nặng suốt đêm. Hầu hết trẻ bị viêm tắc thanh quản bị ho ít nhất vài đêm trước khi khỏi bệnh. Kèm theo ho còn có các triệu chứng: khó thở nhẹ hoặc vừa, thở rít khi hít vào. Trẻ bị sốt nhẹ, giọng nói khàn, đau họng, nhất là đau sau cơn ho, tức ngực do ho nhiều. Thông thường khó thở chỉ ở mức độ nhẹ hoặc vừa, nên khi gặp trẻ khó thở nặng cần nhanh chóng đưa đi cấp cứu.
 
 Virut cúm A - một trong các mầm bệnh gây viêm tắc thanh quản
Đa số các trường hợp viêm tắc thanh quản không đe dọa tính mạng. Tuy nhiên, nếu trẻ bị viêm tắc thanh quản nặng thì cần phải cấp cứu ngay. Viêm tắc thanh quản nặng thường biểu hiện là trẻ thở rít, âm lượng cao khi hít vào với tiếng khò khè. Các trường hợp khò khè có thể tiến triển bệnh nặng hơn và tắc đường thở với các triệu chứng: chảy rãi hoặc nuốt khó do đau họng, khó thở tăng, ho nặng hơn, da vùng quanh mũi và miệng xanh hoặc sẫm màu. Nếu thấy trẻ bị xanh hoặc tím môi và miệng phải nhanh chóng đưa trẻ đến bệnh viện khám.
Đề phòng biến chứng
Bạn cần theo dõi để phát hiện sớm biến chứng của bệnh. Đáng lo nhất đối với viêm tắc thanh quản là trẻ bị khó thở nặng. Bởi viêm tắc thanh quản rất nặng có thể gây viêm sưng và tắc đường thở đe dọa tính mạng của trẻ. Các biến chứng khác là nhiễm khuẩn tai và viêm phổi, vì virut gây viêm tắc thanh quản có thể lan vào phổi hoặc lên mũi và tai gây bệnh. 
Chăm sóc trẻ viêm tắc thanh quản
Viêm tắc thanh quản là do virut gây ra, cho nên thuốc kháng sinh không có tác dụng điều trị bệnh. Nếu con bạn bị viêm tắc thanh quản thì trước hết bạn phải bình tĩnh và giữ cho trẻ bình tĩnh. Hãy dỗ dành trẻ, vuốt ve âu yếm, đọc sách, kể chuyện hoặc chơi những trò nhẹ nhàng, đừng để trẻ khóc, vì khóc chỉ làm cho trẻ thêm khó thở. 

Bạn nên làm ẩm không khí cho trẻ thở bằng cách mở vòi nước hoặc dùng quạt phun sương nhưng đừng để cho trẻ bị lạnh. Bế trẻ ở tư thế thẳng đứng hoặc ngồi thẳng giúp trẻ dễ thở hơn. Bạn luôn nhớ cho con uống nước hoặc ăn thức ăn lỏng ấm, như món súp có thể làm trẻ dễ chịu và làm loãng dịch tiết đặc. Cho trẻ uống sữa cũng rất tốt. Dùng thuốc giảm đau như acetaminophen để giảm đau và cải thiện khả năng ăn uống của trẻ. Tuyệt đối không để trẻ hít phải khói thuốc, bởi vì khói thuốc có thể làm triệu chứng nặng thêm. 
 
Hiện nay vẫn chưa có vaccin phòng ngừa viêm tắc thanh quản do virut. Biện pháp phòng bệnh lây lan tốt nhất là rửa tay thường xuyên cho bạn và cho trẻ sau mỗi lần tiếp xúc với đồ vật hoặc thay tã lót, quần áo cho trẻ. Tránh cho trẻ tiếp xúc với người bị nhiễm khuẩn hô hấp cũng là cách tốt để phòng cảm lạnh và viêm tắc thanh quản. Đeo khẩu trang thường xuyên khi chăm sóc trẻ và mỗi khi ra đường để phòng tránh cúm.
AloBacsi.vn (Theo BS. Ninh Hồng - Sức khỏe & Đời sống)

Thịt chế biến sẵn làm bệnh hô hấp nặng thêm

Ăn quá nhiều thịt chế biến sẵn, thịt xông khói, xúc xích có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng bệnh đường hô hấp.

Một nghiên cứu mới đây cho thấy ăn quá nhiều thịt chế biến sẵn, thịt xông khói, xúc xích có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng bệnh đường hô hấp như bệnh khí phế thũng, viêm phế quản mạn.
Trong nghiên cứu mới này, các tác giả Tây Ban Nha báo cáo rằng nitrate được sử dụng để bảo quản trong các loại thịt chế biến sẵn tạo ra các dạng ni-tơ phản ứng có thể gây tổn thương mô phổi. Tiêu thụ quá nhiều những thực phẩm này có thể làm tăng nguy cơ nhập viện ở bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD).
274 bệnh nhân COPD được theo dõi trong thời gian trung bình là 2 năm sau lần nhập viện đầu tiên. Các đối tượng tham gia cung cấp thông tin về lượng tiêu thụ thịt chế biến sẵn như thịt lợn muối, xúc xích, thịt xông khói.
Nghiên cứu, được đăng trên số ra ngày 8/3 của tờ European Respiratory Journal, phát hiện ra rằng ăn một lượng lớn thịt chế biến sẵn có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng COPD, khiến những người bị bệnh này dễ phải nhập viện.
Các tác giả bổ sung thêm rằng bên cạnh việc hạn chế thực phẩm nhiều nitrate thì bỏ thuốc lá và tăng cường hoạt động thể chất cũng có thể giúp ngăn ngừa các đợt bệnh cấp.
AloBacsi.vn (Theo Quỳnh Chi - An Ninh Thủ Đô)

Người cao tuổi bị hen do đâu?

Mọi người đều có thể mắc bệnh hen, nhưng người già bị bệnh hen thường nặng, điều trị khó khăn hơn.

Ảnh minh họa
Nguyên nhân gây bệnh
Có nhiều căn nguyên gây bệnh hen ở người cao tuổi như: lúc nhỏ bị hen, khi lớn hết hen, nay già lại bị hen. Khi cao tuổi hen mới xuất hiện lần đầu do có những yếu tố nguy cơ gây hen đó là: nhiễm khuẩn hô hấp, đặc biệt nhiễm virut đường hô hấp trên, viêm họng, viêm xoang, viêm phế quản, giãn phế quản.
 
Do tiếp xúc với các kháng nguyên lạ như: bụi nhà, bụi lông gia súc gia cầm, bụi xác côn trùng, nấm mốc, phấn hoa, lông thú, chất tiết của động vật nuôi trong nhà: chó, mèo, thỏ; do dị ứng với phân khô, chất thải và xác của ruồi, gián, muỗi, chuột; do nấm mốc. Bụi đường, khói xe, khói do người khác hút thuốc lá, thuốc lào hoặc ngửi phải mùi thuốc lá, thuốc lào. Thay đổi thời tiết như độ ẩm và sương mù, lạnh và khô.
 
Một số thuốc chữa bệnh mà người già đã và đang dùng cũng là căn nguyên gây nên bệnh hen như thuốc aspirin, kháng sinh, thuốc hạ nhiệt giảm đau, chống viêm không steroid... Bệnh nhân làm việc gắng sức. Ăn một số thức ăn lạ như: tôm, cua, cá biển, rượu, bia...; tiếp xúc một số muối kim loại, bụi gỗ, hơi xăng dầu. Xúc động mạnh, vui buồn quá độ... lâu ngày cũng là những căn nguyên thuận lợi làm bùng phát bệnh hen hoặc làm bệnh hen nặng thêm.
Dấu hiệu của bệnh hen ở người cao tuổi
Người già có thể bị hen ngoại sinh và hen nội sinh. Hen nội sinh hay hen do nhiễm khuẩn là hen không do dị ứng, không có tiền sử gia đình bị hen, triệu chứng dai dẳng, không rõ yếu tố làm bùng phát cơn hen.
 
Cơn hen có thể xảy ra điển hình hoặc không rõ ràng. Một cơn hen điển hình thường xảy ra ban đêm, bệnh nhân khó thở chậm, rít, đôi khi có triệu chứng báo trước như hắt hơi, sổ mũi, ho khan, tức ngực; chủ yếu khó thở thì thở ra, cơn nặng bệnh nhân phải ngồi chống tay, há miệng thở, cơn có thể kịch phát hoặc liên tục.
 
Lúc gần hết cơn hen thì ho tăng dần, khạc đờm trắng dính quánh, do nhiễm khuẩn thì đờm nhầy mủ màu vàng hoặc xanh, càng khạc được đờm ra bệnh càng nhanh đỡ và hết cơn. Khi đang hen, khám phổi: gõ vang, rung thanh bình thường, rì rào phế nang giảm, có ran rít, ran ngáy ở khắp hai bên phổi.
Cơn hen kịch phát điển hình thì khó thở chậm, có tiếng rít xuất hiện đột ngột từ vài phút đến hàng giờ. Cơn hen liên tục: khó thở chậm rít, kéo dài từ 4 - 5 giờ đến một vài ngày. Cơn ác tính hen liên tục nặng trên 24 giờ do tắc nghẽn phế quản tận, dùng thuốc hen thông thường không kết quả, biến chứng nguy hiểm như suy hô hấp, suy tim phải, tử vong.
Một số triệu chứng chủ yếu của hen ở người già là ho thường kéo dài kèm theo khó thở, khò khè và nặng ngực. Những dấu hiệu này nếu nhẹ thường bị bỏ qua vì cho là bệnh của người già khi thời tiết thay đổi đột ngột. Bệnh hen ở người già dễ nhầm với một số bệnh khác như bệnh tim, viêm phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, bệnh viêm phế quản  mạn tính, bệnh khí phế thũng, viêm mũi, xoang, trào ngược dạ dày thực quản, lao phổi...
Hen ngoại sinh là do dị ứng, thường bị cơn hen ở cuối ngày hoặc buổi tối sau khi tiếp xúc với chất gây dị ứng, đỡ khó thở sau khi được nghỉ ngơi.
Hen có thể gây các biến chứng cấp tính là hen ác tính, tâm phế cấp, tràn khí màng phổi và biến chứng mạn tính gồm khí phế thũng, biến dạng lồng ngực, suy hô hấp mạn, tâm phế mạn.
Chữa trị và phòng bệnh
Điều trị chống co thắt phế quản dùng các loại thuốc sau:  theophylin, synthophylin, salbutamol, ventolin, terbutalin. Thuốc kháng cholinergic như ipratropium bromide theostast, salmeterol. Thuốc chống viêm dùng methyl prednisolon, corticoid tại chỗ như becotid, pulmicort, sertide.
 
Chống dị ứng: các thuốc kháng histamin tổng hợp. Chống bội nhiễm dùng kháng sinh, nhưng tránh dùng các thuốc dễ gây dị ứng như penixilin. Trường hợp cấp cứu cho bệnh nhân thở ôxy, khi cần thiết cho thở máy, dùng thêm các thuốc long đờm, giảm ho, truyền dịch, trợ tim mạch, đặc biệt dùng corticoid liều cao.
 
Phòng bệnh:
 
Nếu biết được nguyên nhân gây bệnh hen thì tìm mọi cách để loại trừ. Mùa lạnh cần mặc ấm, tắm nước nóng và không nên tắm lâu. Ngày lạnh không nên ra ngoài trời sớm, nhất là các cụ có thói quen tập thể dục buổi sáng. Thời tiết lạnh và gió nên tập thể dục trong nhà, ở nơi thoáng mát. Phòng ngủ phải kín gió. Bỏ hẳn hút thuốc lá, thuốc lào.
 
Không nên nuôi chó mèo trong nhà nếu nghi là do chúng gây ra  bệnh hen. Nên giặt chăn, màn, ga, vỏ gối, vỏ chăn hàng tuần tránh nấm mốc. Tích cực diệt ruồi, gián, muỗi chuột. Người già vẫn cần tập thể dục, vận động thân thể, ăn uống điều độ để nâng cao sức khoẻ phòng chống mọi bệnh tật. Nên khám sức khỏe định kỳ để kịp thời phát hiện và điều trị các bệnh tật. 
AloBacsi.vn (Theo ThS Phạm Thanh Tùng - Sức khỏe & Đời sống)

Lưu ý phòng bệnh hô hấp

Thời tiết chuyển mùa khiến bệnh hô hấp tăng nhanh. Sinh hoạt đúng cách sẽ giúp phòng bệnh và nhanh hết bệnh.

Ngay khi húng hắng ho
1. Chú ý nghỉ ngơi
2. Tránh xa khói thuốc lá.
3. Uống nhiều nước, tránh các đồ uống có cafein như cocacola, trà đặc, cà phê vv. 
4. Lưu thông không khí trong phòng.
5. Ăn nhiều thực phẩm giàu vitamin C như táo đỏ, cà chua, rau chân vịt, cải thảo... để nâng cao sức đề kháng của cơ thể.
Ngoài ra, khi đi khám chữa trị ho nhất định cần phải tìm rõ nguyên nhân và chữa trị dứt điểm.
 
Phòng ho
1. Kiên trì vận động, tập luyện thể thao đều đặn.
2. Hạn chế tới những nơi công cộng, tránh tiếp xúc với người bị viêm nhiễm đường hô hấp.
3. Chú ý dự báo thời tiết để mặc phù hợp.
4. Cần duy trì nhiệt độ và độ ẩm trong phòng.
5. Chú ý vệ sinh cá nhân, thường xuyên rửa tay, không dùng khăn mặt chung.

AloBacsi.vn (Theo Dương Hằng - Dân trí)

Thực phẩm bổ phổi

Các bệnh phổi mãn tính cũng là nguyên nhân hàng đầu gây ra cái chết cho nhiều người.

Ngoài việc từ bỏ thói quen hút thuốc, tạo môi trường sống trong lành thì lưu ý bổ sung những thực phẩm sau sẽ giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh như hen suyễn hay ung thư.
Khoai lang
Môi trường ẩm ướt của phổi là “sân chơi” sinh sản lý tưởng, màu mỡ cho vi khuẩn. Hệ miễn dịch của cơ thể sẽ kiểm soát tốt sự phát triển của vi khuẩn này. Tuy nhiên, nếu cơ thể không bổ sung đủ vitamin A thì hệ miễn dịch của bạn sẽ  không hoạt động tốt như bình thường.
Theo các chuyên gia y tế, vitamin A giúp phổi loại bỏ các vi khuẩn có hại và giảm nguy cơ ung thư phổi. Và khoai lang chính là nguồn dinh dưỡng chứa nhiều vitamin A nhất.
Một củ khoai lang vừa chứa hơn 500% yêu cầu vitamin A hàng ngày cho cơ thể (theo báo cáo của foodreference.com). Bạn có thể dùng khoai lang để nướng hoặc bổ sung như thành phần của món súp, salad rau, củ quả.
Rau bông cải xanh
Bông cải xanh giàu chất chống ô-xy hóa và vitamin C, các hoạt chất giúp hồi phục các tế bào phổi bị phá hủy do không khí  ô nhiễm hay chất độc mà bạn hít phải.
 
Theo một nghiên cứu của Bệnh viện thành phố Anh, sau khi theo dõi chế độ ăn của 2.600 người lớn, kết quả cho thấy những người bổ sung đầy đủ vitamin C như yêu cầu thì phổi hoạt động tốt hơn so với những người không bổ sung đủ vitamin C trong chế độ ăn.
Sữa không kem
Sữa không kem và những sản phẩm từ sữa khác là một trong những nguồn thực phẩm chứa nhiều vitamin D. Vitamin D là loại vitamin thường được tổng hợp từ ánh sáng đến tia UV. Tuy nhiên, nhiều người không nạp đủ loại vitamin quan trọng này. Vitamin D giúp hỗ trợ cho việc  điều trị các bệnh COPD hay hen suyễn. Đồng thời, vitamin này cũng chống lại các quá trình có hại tạo ra các mô ung thư ở phổi và giúp giảm nguy cơ viêm phổi cấp hay mãn tính.
AloBacsi.vn (Theo Quách Vinh - Dân trí/ Livestrong)

Thuốc điều trị viêm mũi dị ứng mùa xuân

Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, nhưng nó cũng là mùa mà bệnh viêm mũi dị ứng xuất hiện nhiều nhất.

Tuy không nguy hại tới tính mạng nhưng viêm mũi dị ứng khiến người bệnh rất khó chịu, gây trở ngại trong sinh hoạt và những điểm trở ngại này là mục tiêu chính của tiến trình điều trị.
 
Những điểm cần điều trị
Mùa xuân tuy khí hậu có ấm áp hơn mùa đông nhưng vẫn còn những đợt không khí lạnh xen kẽ độ ẩm không khí cao. Trong tiết trời lúc ấm, lúc lạnh rất dễ bị viêm mũi dị ứng. Chỉ cần tối hôm trước ấm nhưng sáng hôm sau lạnh là bạn có thể bị viêm mũi dị ứng ngay do hơi lạnh kích thích. Mùa xuân cũng là mùa của hoa nở và ong bướm tìm nhụy, chúng ta có thể không nhìn thấy nhưng trong không khí rất nhiều phấn hoa và bụi mạt côn trùng. Những tác nhân này là yếu tố gây dị ứng.
Tuy không nguy hại tới tính mạng nhưng viêm mũi dị ứng khiến người bệnh rất khó chịu, gây trở ngại trong sinh hoạt. Đó là các triệu chứng chảy mũi và ngạt mũi: nước mũi loãng và trong cứ chảy ròng ròng khiến người bệnh liên tục phải dùng khăn để lau.
 
Khi bị viêm mũi dị ứng, người bệnh có thể hắt hơi. Nếu hắt hơi nhiều cũng khiến người bệnh mệt mỏi. Khi ở công sở hoặc nơi đông người thì hắt hơi thực sự là một điều bất tiện. Hiệu quả điều trị của viêm mũi dị ứng phải được định giá bằng nhiều chỉ tiêu, trong đó có việc cắt cơn chảy dịch mũi và những tràng hắt hơi này.
Cuối cùng, mục tiêu quan trọng nhất trong điều trị viêm mũi dị ứng là cắt cơn tái phát. Điều này được thực hiện bằng việc dùng các thuốc khống chế làm sao cho việc tái phát giảm xuống mức thấp nhất trong ngày.
Các thuốc thường dùng
Có rất nhiều loại thuốc khác nhau với nhiều dạng bào chế khác nhau được sử dụng điều trị bệnh viêm mũi dị ứng, nhưng có thể phân ra ba nhóm thuốc sau:
 Phấn hoa - tác nhân gây dị ứng xâm nhập cơ thể

Thuốc chống chảy mũi: Trong viêm mũi dị ứng, dịch mũi được tạo ra do mạch máu giãn nhiều, nước trong mạch máu thấm qua thành mạch tạo ra từng dòng dịch mũi. Thuốc chống chảy mũi có tác dụng làm co mạch máu mũi do tác động vào thụ cảm thể alpha của adrenalin trên thành mạch. Sau khi gắn vào các thụ cảm thể đặc hiệu, chúng sẽ gây co mạch ngay tức thì và nhanh chóng khống chế được tình trạng chảy dịch mũi. Đại diện điển hình của nhóm thuốc này như ephedrin, xylometozalin, naphazolin...
Khi dùng thuốc chống chảy mũi, người bệnh không nên ngoáy mũi liên tục vì sẽ làm mạch máu bị kích thích và lại giãn ra, thuốc sẽ mất tác dụng. Cũng không nên dùng các gia vị như ớt, tiêu, mù tạt, tỏi sống (vì sẽ kích thích chảy nước mũi). Không dùng chung các thuốc chống chảy mũi đồng thời với dầu gió vì các thuốc này và dầu gió có tác dụng trái ngược nhau sẽ làm triệt tiêu lẫn nhau.
Thuốc chống viêm: Các thuốc chống viêm tỏ ra khá công hiệu trong bệnh viêm mũi dị ứng. Mặc dù thuốc không ảnh hưởng tới chất trung gian hóa học histamin, vốn được coi là một chất tâm điểm của phản ứng dị ứng, nhưng nó lại tác động vào các trung gian hóa học khác như prostaglandin, leukotrien. Thuốc làm giảm tổng hợp, giảm giải phóng và giảm sự hoạt hóa các chất này. Biểu hiện bên ngoài là người bệnh cảm thấy nhẹ nhàng hơn, bớt choáng váng hơn, dễ chịu hơn. Đại diện cho nhóm này là các thuốc như acid salicylic, prenisolon, medrol…
Tuy nhiên, khi dùng thuốc này cần lưu ý, không nên uống thuốc vào thời điểm đói hay trước bữa ăn (vì sẽ gây kích thích đường tiêu hóa, viêm loét dạ dày, đặc biệt đối với những trường hợp mẫn cảm). Nên uống thuốc sau ăn hoặc ngay trong khi ăn. Trường hợp phải dùng thêm corticoid trong liệu trình điều trị, thì nên uống các thuốc corticoid sau 8 giờ sáng. Vì khi đó, corticoid nội sinh được tiết ra trong cơ thể, vừa làm tăng hiệu quả của thuốc lại vừa không gây ra suy tuyến thượng thận.
Thuốc kháng histamin ở thụ thể H1: Thuốc kháng histamin ở thụ thể H1 đóng vai trò là thuốc chủ đạo nhất trong điều trị bệnh viêm mũi dị ứng. Chúng thể hiện tác dụng thông qua vai trò gắn kết cạnh tranh với histamin tại thụ thể H1 làm các histamin không thể gắn được vào thụ thể này. Gần như tất cả các thụ thể H1 được gắn bởi thuốc, không có vai trò gây dị ứng, còn các histamin thì dư thừa trong máu và bị thoái biến dần.
Các thuốc này bao gồm: clopheniramin, promethazin, alimemazin, cetirizin, loratadin... Thuốc có tác dụng làm ngừng trệ bệnh viêm mũi dị ứng theo đúng nghĩa vì làm bất hoạt hoàn toàn các cơ chế của dị ứng. Tuy nhiên, nếu dùng trong viêm mũi dị ứng thì phải dùng ngay từ đầu, nếu dùng khi bệnh đã đạt đỉnh thì thuốc sẽ chậm phát huy tác dụng. Lý do không phải vì thuốc hiệu quả kém mà vì nồng độ histamin quá cao và thường lấn át thuốc.
Tuy nhiên, cần thận trọng với tác dụng phụ gây buồn ngủ hoặc ngủ gà của các thuốc này, nhất là đối với các thuốc kháng histamin thế hệ 1 như clopheniramin, promethazin...
AloBacsi.vn (Theo BS Huyền Trang - Sức khỏe & Đời sống)

Cẩn thận với bệnh hô hấp mùa xuân

Thời tiết lạnh, ẩm vào mùa xuân cũng là mùa bùng phát mạnh các bệnh hô hấp ở trẻ .

Để chữa trị những bệnh này, các bác sĩ khuyến cáo cần nắm rõ các triệu chứng và cách dùng thuốc cho từng căn bệnh.
1.Viêm đường hô hấp trên (viêm mũi họng cấp) là bệnh phổ biến nhất ở trẻ em trong mùa xuân. Trẻ thường ho kèm theo chảy nước mũi, có thể kèm theo sốt nhưng không khó thở.
Ho là một phản ứng của cơ thể để tống các chất lạ hoặc chất nhầy tiết nhiều quá ra khỏi các ống dẫn khí. Bởi vậy, ho là một phản ứng bảo vệ cần thiết của cơ thể nên nhiều khi không nên tìm cách ngăn cản triệu chứng ho.
Một số thuốc an thần, giảm ho có khi lại có hại, làm cho trẻ khó thở. Nên cho trẻ dùng các loại thuốc có tác dụng làm loãng cả chất nhầy để dễ tống chúng ra ngoài (nhỏ mũi bằng natriclorua 0,9%). Chỉ khi trẻ ho khan nhiều quá, bị mất sức vì ho ban đêm thì mới cho uống thuốc ho và an thần (như theralene…) để làm dịu cơn ho. 
2.Viêm phế quản: Là bệnh hay gặp ở trẻ lớn trên 5 tuổi. Trẻ thường có các triệu chứng như sốt, ho nhưng không thở nhanh hoặc co rút lồng ngực nếu được chữa trị sớm bằng một thuốc kháng sinh. Thường thì bệnh khỏi trong vòng vài ngày nhưng cũng có khi kéo dài tới 1-2 tuần, nhất là với các cháu chưa biết cách khạc đờm.
 
3. Viêm phổi: Bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi. Trẻ bị viêm phổi thường có các triệu chứng như: sốt cao, ho, thở nhanh, trường hợp nặng, cánh mũi trẻ phập phồng hoặc co rút lồng ngực. Cần phải đưa trẻ tới cơ sở y tế khám và chữa trị  kịp thời bằng thuốc kháng sinh, trẻ sẽ nhanh khỏi.
 
Cách phòng các bệnh hô hấp vào mùa xuân là đảm bảo chế độ ăn uống vệ sinh, cho trẻ mặc đủ ấm. Khi trẻ mắc bệnh, phải điều trị kịp thời, dùng thuốc đủ liều lượng theo sự hướng dẫn của thầy thuốc.
 
Trong tủ thuốc gia đình nên có sẵn nhiệt kế, thuốc hạ sốt, dung dịch nhỏ mũi, mắt, gói oresol... để dùng khi cần thiết. Ngoài chăm sóc ăn uống và phòng chống lạnh, tránh gió lùa, có thể nhỏ mũi cho trẻ bằng dung dịch sunfarin hoặc natriclorid 0,9%, không cho trẻ ốm đi nhà trẻ, mẫu giáo để tránh lây lan cho trẻ khác.
Theo P.N - Lao động

Cách phòng bệnh phổi ở người cao tuổi

Người cao tuổi không nên làm việc quá sức. Cần chú ý phòng chống lạnh tốt, không nên chủ quan để cơ thể bị nhiễm lạnh đột ngột.

Các thống kê lâm sàng cho hay bệnh phổi rất thường gặp ở những người cao tuổi, và cũng dễ nặng lên hơn so với người trẻ. Có khi chỉ viêm long mũi họng nhẹ nhưng dễ nặng lên thành viêm phế quản. Mà viêm phế quản ở người cao tuổi thường kéo dài hơn, dễ tái phát hơn, dễ tiến triển thành mạn tính, kể cả giãn phế quản...

Phổi lão hóa quy luật tất yếu

Nhờ có sự chênh lệch áp suất sự trao đổi khí ở phế nang xảy ra thường xuyên liên tục. Chênh lệch áp suất giữa phế nang và môi trường không khí bên ngoài cơ thể thường xuyên được tạo ra là do hoạt động của các cơ hô hấp. Nhưng khi cơ thể về già phổi lão hóa thì sự trao đổi khí có những trục trặc.

Biến đổi của phổi theo tuổi tác rất rõ, nói một cách khác khi tuổi càng cao, phổi càng có sự lão hóa rõ rệt: phổi bị giảm cả về khối lượng và thể tích, lại ít di động. Vách phế nang - mao mạch thường bị teo, mô tạo keo dần dần thay thế cho những mao mạch đã bị thưa đi, độ đàn hồi thành phế nang giảm, khiến cho khí qua lại không được dễ dàng, hậu quả là dung tích sống của phổi bị giảm nhiều.
 
Với người Việt Nam, theo một số tính toán thì dung tích sống của nam giới lúc 25 tuổi là 3,82 lít; lúc 60-64 tuổi chỉ còn 2,75 lít. Đó là do giảm khả năng di động của lồng ngực và lực cơ hô hấp, cũng như khả năng lưu thông khí của phế quản và độ đàn hồi của phổi. Hậu quả tất yếu của những biến đổi này gây nên giảm thông khí tối đa và dự trữ không khí phổi. Sự suy giảm không khí phổi dễ đưa đến tích tụ nhiều bụi ở phổi, các lông chuyển trên bề mặt các tế bào biểu mô phế quản suy yếu không đủ khả năng đưa bụi và dị vật ra khỏi đường hô hấp, tăng nguy cơ bị các bệnh viêm nhiễm phế quản và phổi.

Người cao tuổi cần sống trong bầu không khí trong lành ít khói, bụi...

Một số người cao tuổi có thể trước đây nghỉ ngơi yên tĩnh, không khí trong lành, giữ gìn sức khỏe tốt thì không có biểu hiện gì. Nhưng qua một đợt nhiễm lạnh, nhiễm khuẩn phổi là bệnh vượng ngay - suy hô hấp sẽ bộc lộ rõ - khó thở, thở nhanh và nông, mạch nhanh... T
 
hở nhanh, mạch nhanh là một cơ chế tự nhiên của cơ thể nhằm bù đắp sự thiếu hụt ôxy, nhưng vì phổi đã lão hóa nên việc đó lại trở thành phản tác dụng. Thở nhanh nhưng là thở nông nên sự thông khí chỉ đạt tới vùng phế quản, không giúp được gì cho việc trao đổi khí ở phế nang, có rất ít thời gian để hồng huyết cầu tiếp xúc với không khí, độ bão hòa ôxy máu động mạch bị giảm sút nghiêm trọng do đó càng làm tăng sự thiếu ôxy máu ở các mô, càng cảm thấy thiếu thở.

Cần lưu ý bệnh viêm phổi

Ở miền Bắc nước ta, mùa đông và đông - xuân có nhiều đợt gió mùa đông bắc tràn về, thời tiết rất giá lạnh. Trong các bệnh nguy hiểm thường gặp ở người cao tuổi trong mùa lạnh cần đặc biệt chú ý đến bệnh viêm phổi.
 
Bệnh thường có xu hướng nặng hơn ở người trên 65 tuổi bởi sức chống đỡ của cơ thể kém, phổi lão hóa rõ, đa số là gầy yếu, ăn ít, ngủ ít. Hoặc nặng hơn, ở những người mắc các bệnh mạn tính như đái tháo đường, các tình trạng bệnh lý phải nằm lâu, hoặc những người có cấu trúc phổi – phế quản tổn thương như: bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, giãn phế quản, xơ phổi... 

Thủ phạm gây viêm phổi ở người cao tuổi vẫn là những vi khuẩn, virus sẵn có ở mũi họng, lợi dụng lúc cơ thể bị suy yếu vì nhiễm lạnh, sức chống đỡ kém, chúng vào đường hô hấp và gây bệnh.
 
Đặc biệt ở thời kỳ đầu bệnh viêm phổi người cao tuổi, tiến triển thường âm thầm lặng lẽ, triệu chứng của bệnh rất nghèo nàn dễ bị bỏ qua ở giai đoạn sớm, đến khi bệnh đã rõ nghĩ đến viêm phổi thì đã nặng. Nếu không được điều trị tích cực sẽ nảy sinh những biến chứng nguy hiểm đến tính mạng. Bởi vậy, cần chú ý phát hiện sớm và chữa sớm ngay khi bệnh mới có những biểu hiện nhẹ như sốt nhẹ, gai gai rét, mệt, khạc đờm, ho húng hắng, thiếu thở... phải tới bệnh viện khám ngay để xác định bệnh và điều trị kịp thời, tránh không để bệnh tiến triển nặng.

Phòng bệnh thế nào?

Người cao tuổi không nên làm việc quá sức. Cần chú ý phòng chống lạnh tốt, không nên chủ quan để cơ thể bị nhiễm lạnh, nhất là nhiễm lạnh đột ngột. Không bất chợt ra nơi lộng gió nhất là khi cơ thể đang ra nhiều mồ hôi. Cẩn thận khi phải ra vào những nơi có máy điều hoà nhiệt độ, để không bị nóng lạnh xáo trộn xảy ra quá nhanh, cơ thể không thích nghi kịp. Những hôm lạnh ẩm gió nhiều nên hạn chế tối đa việc đi ra ngoài.

Cần sống trong bầu không khí trong lành ít khói, bụi... Không hút thuốc lào, thuốc lá, nếu nghiện thuốc thì phải tích cực cai nghiện cho bằng được. Bởi khói thuốc có thể làm tê liệt các lông chuyển trên bề mặt các tế bào biểu mô phế quản, chuyển động rối loạn không đẩy bụi và chất nhầy lên được. Sức đề kháng của niêm mạc đường hô hấp cũng bị giảm sút nghiêm trọng, các tế bào bạch cầu, đại thực bào hoạt động kém hiệu quả, làm cho phế quản dễ bị nhiễm khuẩn.

Cần chú ý giữ vệ sinh răng miệng. Thường xuyên đánh răng sau khi ăn và trước khi ngủ để tránh nhiễm trùng răng miệng. Nếu có các ổ nhiễm khuẩn ở răng miệng, tai mũi họng, cần tích cực điều trị để tránh vi khuẩn lan xuống đường hô hấp dưới.

Cần chủ động nâng cao sức đề kháng: Tăng cường khẩu phần với chế độ dinh dưỡng đủ năng lượng, cân đối về thể chất để có sức chống lạnh. Cần tập thể dục đều đặn. Đặc biệt là cần tập thở đều, thở sâu thành thói quen, tốt nhất là theo phương pháp thở bụng. Cách thở đó là: không nhúc nhích hai vai, thở nhẹ nhàng không phì phò, chậm rãi. Thót bụng thở ra hết sức, khi bụng thót hết, ngừng thở, cho bụng phình lên một cách tự nhiên nhẹ nhàng để thở vào. Khi bụng phình lên hết, ngừng một tý, rồi lại thở ra. Làm 4-5 phút rồi nghỉ. Ngày tập 5-7 lần hoặc nhiều hơn càng tốt, có thể ngồi hoặc nằm đều tập được. Tập thở được thường xuyên sẽ có tác dụng rất tốt phục hồi chức năng hô hấp.

Nếu bị ho nhiều thì có thể dùng thuốc giảm ho, nhưng không lạm dụng các thuốc có chứa opium, các thuốc an thần ức chế trung tâm hô hấp, gây suy hô hấp. Nếu có điều kiện nên tiêm phòng vaccin chống phế cầu, vaccin phòng chống cúm, một số thuốc tăng cường miễn dịch nhằm tăng sức đề kháng của niêm mạc đường hô hấp.

Theo BS Vũ Hướng Văn - Sức khỏe & Đời sống

Tiết xuân và các bệnh phổi, phế quản

Mùa xuân, thời tiết lạnh, ẩm, cộng với những cơn mưa phùn... là điều kiện lý tưởng để các bệnh về phổi - phế quản phát triển.

Do có điều kiện tung hoành mạnh trong khoảng thời gian này nên bệnh hô hấp khiến người chưa mắc thì dễ mắc, người đang mắc thì bệnh có xu hướng tăng nặng, người đã chữa khỏi thì bệnh dễ tái phát. Khi cơ thể nhiễm lạnh, bộ phận đầu tiên bị ảnh hưởng là đường hô hấp trên, gây viêm mũi, viêm họng, xoang, từ đó nhiễm khuẩn lan xuống khí phế quản và nhu mô phổi gây viêm phế quản, viêm phổi.
Viêm khí - phế quản cấp tính
Virut cúm influenza A và B, các virut Parainfluenza, virut hợp bào hô hấp, virut hạch, virut đường mũi... khi gặp điều kiện thuận lợi kể trên sẽ sinh sôi và phát tác rất nhanh, gây viêm khí - phế quản cấp mùa đông - xuân.
 
Các triệu chứng của nhiễm khuẩn đường hô hấp trên thường giống với các biểu hiện của viêm khí - phế quản. Với bệnh viêm khí - phế quản cấp, cách phòng bệnh tốt nhất chính là giữ ấm cơ thể, nhất là vùng ngực và cổ. Khi bị bệnh, nên có chế độ ăn uống và nghỉ ngơi tốt kết hợp với dùng kháng sinh thông thường chống bội nhiễm.
Viêm phổi
Từ viêm đường hô hấp trên rất dễ dẫn tới viêm phổi. Hiện nay, các vi khuẩn đã kháng với một hoặc nhiều kháng sinh nên việc điều trị bệnh viêm phổi gặp nhiều khó khăn. Do căn bệnh này nguy hiểm, tỉ lệ tử vong cao, nên nếu nghi ngờ viêm phổi phải đi bệnh viện ngay. Việc phòng bệnh viêm phổi là hết sức quan trọng, đó là giữ ấm, tránh lạnh, tránh ẩm, tránh gió lùa, tăng cường sự chăm sóc, nuôi dưỡng, nâng đỡ cơ thể cho người già và trẻ em.
Mùa lạnh, các bệnh đường hô hấp thường gia tăng
Hen phế quản
Phấn hoa, hóa chất, bụi sinh vật, nấm, mốc, vi khuẩn, bụi vô cơ... là nguyên nhân đầu tiên khiến những người có cơ địa dị ứng, nhất là bệnh nhân hen tái phát hoặc phát bệnh. Bên cạnh đó, do độ ẩm không khí cao, khả năng đề kháng của cơ thể giảm... cũng khiến cho bệnh hen phế quản trong mùa đông xuân cao hơn hẳn so với các mùa khác.
 
Muốn phòng tránh bệnh hen, không có cách gì khác ngoài việc loại trừ các tác nhân gây bệnh như không để cơ thể bị lạnh, tránh bụi, ký sinh vật, nấm mốc, phấn hoa... Đối với những người đã mắc bệnh, điều quan trọng là phải cắt được cơn hen trong thời gian ngắn nhất, không để cơn hen phát triển thành ác tính.
Giãn phế quản
Giãn phế quản có 2 thể, đó là thể “khô” (ít gặp) và thể “ướt” (thường gặp). Giãn phế quản ướt là giãn phế quản xuất tiết, người bệnh có biểu hiện chủ yếu là ho khạc nhiều đờm, nguyên nhân thường do vi khuẩn. Lạnh là yếu tố kích thích phế quản xuất tiết niêm dịch, ứ đọng trong các phế quản giãn là môi trường thuận lợi cho cho nhiễm khuẩn phát triển. Điều đó lý giải vì sao mùa đông - xuân tỉ lệ người bị bệnh này tăng rõ rệt. 
Chống lạnh, chống nhiễm khuẩn cần được đặc biệt chú ý đối với những người đã mắc bệnh này.
Ho ra máu
Sự thay đổi về nhiệt độ và khí áp, đặc biệt với việc các vi khuẩn gây bệnh sinh sôi nhanh trong khí hậu lạnh và ẩm khiến bệnh ho ra máu tăng rõ rệt. Với bệnh này, phòng ngừa tốt nhất vẫn là tránh không để nhiễm khuẩn đường hô hấp. Nếu mắc bệnh phải dùng thuốc kháng sinh theo chỉ định của bác sĩ và có chế độ nghỉ ngơi tốt.
Đợt cấp của tâm phế mạn tính
Tâm phế mạn là bệnh tim do bệnh phổi mạn tính (viêm phế quản mạn tính, hen, giãn phế quản, giãn phế nang, lao phổi...) gây ra. Bệnh thường đột ngột trở nặng trong mùa lạnh, khiến bệnh nhân khó thở nhiều, sau vài đợt như thế nếu không được cấp cứu kịp thời sẽ dẫn đến tử vong. Tuy là bệnh tim nhưng do nguyên nhân phổi nên điều trị chủ yếu về phổi, điều trị nhiễm khuẩn phổi. Do vậy, không để tái phát các bệnh phổi - phế quản trong mùa lạnh là vấn đề sống còn đối với bệnh nhân tâm phế mạn tính.
Áp-xe phổi
Khi bị viêm phổi hay giãn phế quản bội nhiễm, nếu không được giải quyết tốt sẽ biến chứng thành áp-xe phổi. Căn bệnh này sẽ  hủy hoại nhu mô phổi do nhiễm khuẩn S. pneumoniae, H. influenzae... ở trẻ em là do tụ cầu. Để phòng tránh biến chứng này, ngoài việc mặc ấm, giữ kín cổ, khi ra khỏi nhà nên đeo khẩu trang... thì nhà ở phải kín gió.
Lao phổi
Những bệnh nhân lao phổi nếu không được chăm sóc, giữ gìn, điều trị tốt thì bệnh sẽ nặng lên trong mùa lạnh. Vì vậy, người bệnh cần có biện pháp phòng lạnh và ẩm ướt thật tốt.
Tràn dịch màng phổi
Do bệnh lao tăng mạnh sẽ kéo theo tỉ lệ tràn tràn dịch màng phổi ở mùa đông-xuân cao hơn nhiều so với các mùa khác. Khi bị tràn dịch màng phổi, bệnh nhân bắt buộc phải đến các cơ sở điều trị bệnh lao và bệnh phổi để chọc tháo, tránh tai biến ép tạng, suy hô hấp, dày dính màng phổi, đóng vôi màng phổi sau này.
Suy hô hấp
Do dễ bị nhiễm khuẩn, những người mắc bệnh phổi - phế quản mạn tính, người nhiễm virut... rất dễ bị suy hô hấp. Tuy nhiên, suy hô hấp do nhiễm khuẩn điều trị đơn giản, hiệu quả hơn suy hô hấp ở người bị bệnh phổi mạn tính. Suy hô hấp sau cúm thường rất nặng, tử vong cao. Để phòng tránh bệnh này, mùa đông nên đi ngủ sớm, thức dậy muộn, tập thể dục hay đi lại nhẹ nhàng trong nhà hoặc nơi kín gió. Nên ăn các thức ăn có màu đen, tính nhuận như vừng đen, nếp cẩm, đậu đen...
Ngoài ra, mùa đông - xuân, chúng ta còn phải hết sức chú ý phòng chống các bệnh khác như cúm, bệnh ở cơ quan tuần hoàn, bệnh ở cơ quan tiêu hóa, bệnh tiêu chảy mùa đông ở trẻ do Adenovirus...
Theo ThS.Hà Hùng Thủy - Sức khỏe & Đời sống

Phòng bệnh tâm phế mạn

Bệnh tâm phế mạn được nhiều người quan tâm bởi tính chất phổ biến và tỷ lệ tử vong cao.

Nguyên nhân gây bệnh hàng đầu là viêm phế quản, hen phế quản, giãn phế nang, lao, xơ phổi, giãn phế quản, bụi phổi, cắt bỏ nhu mô phổi do u phổi... Đặc biệt những người cao tuổi hay mắc phải.
Giai đoạn đầu của bệnh khởi phát khi bị bệnh phổi mạn tính, rồi lại có thời gian ổn định. Khi bệnh tâm phế mạn ở giai đoạn III, giai đoạn IV thường gan to. Giai đoạn này ảnh hưởng nặng nề về khí máu, nồng độ CO2 trong máu tăng, do suy tim nên huyết động bị ảnh hưởng nặng nề.
Để phòng chống có kết quả bệnh tâm phế mạn phải phòng tránh mắc các bệnh phổi cấp tính, khi bị bệnh phổi cấp tính phải điều trị đúng, điều trị tích cực, kịp thời để không bị bệnh phổi mạn tính. 
    
Theo ThS.BS Đào Bích Vân - Khoa học và Đời sống

Tại sao tiêm phòng cúm mà vẫn bị cúm?

Thời tiết trong những ngày lạnh giá dễ gây cúm. Cùng tham khảo những thông tin sau để biết cách bảo vệ mình và gia đình.

Tôi đã tiêm phòng cúm một năm nay nhưng vẫn bị cúm. Tại sao vậy?
Bạn vẫn có thể bị cúm sau khi tiêm phòng. Đó là do vaccin không thể bảo vệ chống lại tất cả các chủng cúm. Vaccin của từng năm chứa ba chủng cúm khác nhau - những chủng đó được các chuyên gia dự đoán là hay gặp nhất trong năm tới. Nhưng bạn cũng có thể bị nhiễm chủng cúm không có trong vaccin.
Nếu bạn bị cúm sau khi tiêm phòng, vaccin cúm sẽ bảo vệ bạn bằng cách giảm số ngày ốm và khiến bệnh nhẹ hơn so với bình thường.
Nhưng cũng có thể căn bệnh của bạn không phải cúm. Bạn có thể bị căn bệnh có các dấu hiệu và triệu chứng khiến mình nghĩ đến bệnh cúm (thí dụ: viêm dạ dày-ruột).
Các virus khác cũng có thể gây ra những triệu chứng hô hấp như ho và đau họng, và tiêm phòng cúm không bảo vệ cơ thể chống lại những virus này. Tiêm phòng cúm không phòng ngừa cảm lạnh hoặc nhiễm các loại virus khác.
Nếu chưa được tiêm phòng, tôi phải làm gì nếu bị phơi nhiễm virus cúm?
Nếu bạn bị phơi nhiễm virus và được liệt vào nhóm nguy cơ cao (bao gồm trẻ em 6 - 23 tháng tuổi, người trên 65 tuổi, người bị bệnh mạn tính hoặc phụ nữ có thai ba tháng giữa hay ba tháng cuối) nên dùng thuốc kháng virus dự phòng (Flumadine, Tamiflu…) theo đơn bác sĩ.
Nếu không thuộc nhóm nguy cơ cao, chờ xem liệu bạn có bị các dấu hiệu và triệu chứng cúm không, như sốt cao, đau họng, đau cơ và khớp nặng, mệt mỏi. Bạn có thể điều trị bằng thuốc kháng virus, nhưng phải bắt đầu trong vòng 24 - 48 giờ sau khi có các triệu chứng.
Tôi có thể làm gì để giảm nhẹ triệu chứng khi bị cúm?
Đầu tiên, cần ngừng đi làm hoặc đi học, vì như vậy bạn có thể làm lây lan cúm cho người khác.
Để giảm triệu chứng, bạn có thể:
- Nghỉ ngơi
- Uống nhiều nước
- Uống thuốc kháng virus nếu bác sĩ kê đơn.
- Cũng nên tự theo dõi. Nếu bạn thấy bệnh nặng thêm, hãy đi khám bác sĩ.
Lưu ý: Bạn nên tiêm phòng cúm hàng năm ngay từ bây giờ để bảo vệ chính mình, gia đình và cộng đồng.
Theo Ths.BS Vũ Tuyết Mai - Tiền Phong

Giảm stress để ngừa cảm lạnh

Trong những ngày đông lạnh giá vào dịp cuối năm thật khó để tránh cảm lạnh và cúm.

Tuy nhiên, một vài lưu ý đơn giản trong sinh hoạt sẽ rất tốt trong việc giúp bạn phòng ngừa. Cụ thể là người già, phụ nữ sau sinh cần phải hết sức giữ gìn sức khỏe trong những ngày giá lạnh vì sức đề kháng giảm, bộ máy hô hấp kém.
Phụ nữ sau sinh giống như vừa “lột xác”, sức khỏe thường yếu do mất sức, đau đớn khi sinh lại phải thay đổi giấc ngủ, ăn uống do chăm con, cho con bú, nếu không kiêng gió và nước lạnh thì rất dễ bị cảm dẫn đến tắt sữa, ít sữa hoặc tiêu hẳn sữa gây căng tức đầu vú. Chị em vẫn tắm rửa sạch sẽ nhưng cần tắm nhanh trong phòng kín gió, tắm xong cần lau khô người bằng khăn bông mềm và mặc quần áo ấm.

Không phải người già hay phụ nữ sau sinh nhưng nếu lao động căng thẳng và bị stress thì bạn cũng sẽ rất khó để chống đỡ cảm lạnh và cúm. Do đó, giảm stress là cách mà thầy thuốc luôn khuyên chúng ta nhằm gián tiếp tăng cường hệ miễn dịch để chống lại cảm, cúm. Chúng ta có thể giảm stress bằng cách chủ động giảm bớt hoặc loại bỏ những căng thẳng, lo lắng trong công việc; tăng cường giao lưu thân thiện và chia sẻ với mọi người. Ông cha chúng ta cũng đã từng dạy “nụ cười bằng mười thang thuốc bổ” là vì vậy.
 
Nhiều nghiên cứu khoa học cũng đã chứng minh rằng những người có nhiều bạn bè và hay tham gia vào các hoạt động xã hội thường có một hệ thống miễn dịch tốt hơn những người khác, chống lại các loại virus gây bệnh lây lan phổ biến, trong đó có cảm, cúm… mặc dù họ luôn phải tiếp xúc với người nhiễm bệnh nhiều hơn.

Chế độ ăn trong mùa đông nên có nhiều trái cây, các loại đậu, rau, ngũ cốc để bảo đảm cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng chống ôxy hóa, cần thiết cho hệ thống miễn dịch làm việc hiệu quả; các vitamin (như A, B6 và E); các khoáng chất như đồng, sắt, kẽm… đặc biệt là vitamin C có thể làm giảm nguy cơ cảm lạnh khi cơ thể bị căng thẳng.
 
Vitamin A có nhiều trong bông cải, cà rốt, bí đỏ; vitamin E có trong các loại đậu, ngũ cốc, bơ; kẽm có trong các loại đậu, hàu, bơ…; đồng có trong sữa, bánh mì và rau xanh; sắt có trong trứng, cá, gia cầm, rau xanh…

Những người ngủ 8 giờ hoặc hơn trong vòng 2 tuần liên tục sẽ có khả năng giảm nguy cơ mắc cảm cúm đến 3 lần so với người ngủ ít hơn 7 giờ.

Nếu ngày nào bạn cũng tập thể dục vừa phải ít nhất 45 phút thì không chỉ chắc chắn là ít cảm lạnh và cúm hơn người khác mà nếu có nhiễm virus cúm thì cũng sẽ mau hết hơn. Tuy nhiên, lưu ý là tập thể dục khác với chơi thể thao. Những người chơi thể thao quá sức thì sẽ dễ cảm lạnh và nhiễm trùng hơn những người khác.
Theo Lương y Hoàng Châu - Người lao động